Các băng nhóm tội phạm người Việt buôn bán ma túy hiện là một trong những đối tượng tội phạm nước ngoài đáng chú ý nhất tại Cộng hòa Séc. “Chúng tôi đang chứng kiến những vụ việc có liên kết xuyên quốc gia. Hóa chất được cất giữ ở Đức, sản xuất tại Ba Lan, còn toàn bộ hoạt động bị điều phối từ Séc,” ông Jakub Frydrych – Giám đốc Trung tâm Quốc gia Phòng chống Ma túy – mô tả tình hình mới nhất liên quan đến hoạt động sản xuất và buôn bán ma túy methamphetamine (pervitin).

Theo thống kê của cảnh sát, trong năm 2024 có hơn 3.000 đối tượng phạm tội liên quan đến ma túy, trong đó khoảng 10% là người nước ngoài. Ngành chức năng ghi nhận nhiều nhất là người Slovakia (82), tiếp theo là người Ukraine (62) và người Việt Nam (44). Theo ông Frydrych, tội phạm ma túy liên quan đến người Việt mang tính đặc thù cao và phương thức hoạt động của họ đang ngày càng thay đổi theo thời gian.
Lịch sử hình thành của hoạt động buôn bán ma túy trong cộng đồng người Việt tại Séc ra sao?
Chúng tôi bắt đầu quan tâm đến bộ phận tội phạm trong cộng đồng người Việt sau Cách mạng Nhung, ban đầu tập trung vào heroin được nhập lậu vào nội bộ cộng đồng. Trong những năm 2008–2009, chúng tôi phát hiện dòng tiền và công nghệ dùng để trồng cần sa quy mô lớn dưới ánh sáng nhân tạo được chuyển từ cộng đồng người Việt sống tại Hà Lan, Na Uy hay Vương quốc Anh về Séc. Sau đó là làn sóng xuất hiện hàng loạt trại trồng cần sa.
Những cơ sở này được ngụy trang như thế nào?
Chúng thường nằm trong các kho xưởng, nhà ở được thuê dưới tên của các "người đứng tên" (bạch mã). Sản phẩm cần sa chủ yếu được vận chuyển sang các nước Tây Âu. Khoảng năm 2012, hoạt động của các nhóm tội phạm Việt bắt đầu mở rộng sang sản xuất methamphetamine. Ban đầu họ thuê người Séc nấu pervitin, sau đó dần rà soát lại nguồn lực và chuyển toàn bộ quy trình logistics, sản xuất sang chính người Việt để tự kiểm soát mạng lưới.
Hiện nay tình hình ra sao?
Ngày nay, các nhóm này thường kết hợp các cơ sở trồng cần sa nhỏ với hoạt động sản xuất pervitin và trải rộng hoạt động sang nhiều quốc gia như Đức, Ba Lan và Hà Lan.
Nhóm tội phạm Việt Nam có mức độ ảnh hưởng như thế nào hiện nay?
Trong giai đoạn đỉnh điểm (2010–2018), các phòng thí nghiệm do người Việt điều hành chỉ chiếm 5% trong các cơ sở bị triệt phá, nhưng lại chiếm tới gần 70% lượng methamphetamine bị thu giữ – điều này cho thấy sản lượng rất lớn. Trong số các nhóm tội phạm nước ngoài tại Séc, nhánh tội phạm người Việt tiếp tục được coi là một trong ba nhóm có ảnh hưởng lớn nhất – bên cạnh các nhóm đến từ vùng Balkan và một số nhóm châu Âu nội địa.
Vì sao hoạt động buôn bán ma túy thường gắn liền với các khu chợ?
Các khu chợ là thị trường tiêu dùng lớn, nhắm đến khách hàng chủ yếu từ Đức và Áo – những người không quan tâm đến nguồn gốc hay chất lượng hàng hóa, chỉ quan tâm đến giá cả. Việc mua bán diễn ra trong môi trường khép kín, ngụy trang kỹ lưỡng, rất khó để điều tra. Sự khác biệt văn hóa cũng là rào cản trong điều tra tội phạm, tuy nhiên chúng tôi đang nỗ lực khắc phục bằng mọi công cụ pháp lý, có xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin trong cộng đồng và hợp tác với phiên dịch viên.
Có lý do gì khiến cộng đồng người Việt có lịch sử gắn với tội phạm ma túy như vậy?
Theo tôi, bước ngoặt xảy ra trong hai làn sóng di cư lớn đến Séc – khoảng năm 2007 và 2012. Đó là những người lao động do các công ty môi giới tuyển dụng vào ngành nông nghiệp và công nghiệp kỹ thuật. Do bất cập trong luật pháp và hệ thống không hiệu quả, nhiều người sau thời gian thử việc trở thành lao động bất hợp pháp. Họ từng phải trả khoản tiền lớn để đến Séc, được khai báo là lao động tay nghề cao – điều này phần lớn không đúng. Đây chính là hoàn cảnh mà một nhóm nhỏ tội phạm trong cộng đồng người Việt đã lợi dụng để bóc lột những người này. Nhiều người trong các trại trồng cần sa đầu tiên đã từng rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng như vậy.
Thu nhập tội phạm trong cộng đồng người Việt được xử lý như thế nào?
Trong cộng đồng này tồn tại sự thiếu tin tưởng với hệ thống ngân hàng. Chúng tôi ghi nhận nhiều giao dịch tiền mặt quy mô lớn. Đối với giao dịch quốc tế, họ thường sử dụng hệ thống chuyển tiền phi chính thức tương tự như hawala – tức là giao tiền tại điểm A và người nhận được trả tại điểm B bởi một đối tượng đáng tin cậy khác. Nếu có dùng hệ thống ngân hàng, họ thường sử dụng ngân hàng của Việt Nam tại Đức. Việt Nam không phải là thành viên Công ước quốc tế về chống rửa tiền, vì thế rất khó hợp tác với các cơ quan chức năng của họ trong lĩnh vực này.
Theo CT24
Ghi rõ nguồn TAMDAMEDIA.eu khi phát hành lại thông tin từ website này